Nghiên cứu của Thầy NGUYỄN TUẤN TÀI
Một bài nghiên cứu ngắn, hay, rất bổ ích của Thầy Nguyễn Tuấn Tài.
1. Trên cơ sở so sánh và đối chiếu các tài liệu nghiên cứu về Đà Lạt từ trước đến nay với các tư liệu điều tra hồi cố qua các đợt điền dã tại các vùng dân cư trong địa bàn thành phố và các huyện ngoại vi, chúng tôi thu thập được một danh mục các tên gọi có liên quan đến Đà Lạt trong hơn một trăm năm qua. Tư liệu phản ánh khá nhiều mặt, đặc biệt là lịch sử hình thành và phát triển của thành phố cao nguyên này. Kết quả xử lý tư liệu nói trên phần nào được công bố trong các bài viết của chúng tôi nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đà Lạt hình thành và phát triển. Bài viết này chỉ dừng lại khảo sát một mảng tư liệu nói trên về địa danh Đà Lạt.
2. Chính các địa danh Đà Lạt cũng đã phản ánh khá rõ nét các thời kỳ lịch sử của thành phố:
2.1 Trước hết, đó là thời kỳ khi người Pháp chưa đặt chân lên khai phá cao nguyên Lang Biang. Đà Lạt là vùng đất của tộc người Lạch (dân tộc Kơho) với những địa danh bằng tiếng Thượng dùng để gọi các sông, suối, thác, núi, đèo ... mà nhiều từ còn lưu giữ cho đến ngày nay: Đà Lạt, Lang Biang (Lâm Viên), Đan Kia, Ankroet, Đatanla, Cam Ly, Prenn, Manglinh, Tà Nung, núi Lu Ruas v.v...
2.2 Thời kỳ người Pháp đặt tên cho các đường phố và những công trình xây dựng, các địa danh trên bản đồ đều bằng tiếng Pháp. Một vài ngọn núi được đổi thành tên Pháp vào thời kỳ này, như Labbé (Láp-bê Bắc và Láp-bê Nam), Pin Thouard, Pic Robin. Trong số 72 tên đường có 54 từ gốc Pháp (75%), 12 từ gốc Việt (16%) và 6 từ gốc Kơho (8%).
2.3 Trong giai đoạn tiếp theo (1949-1974), quyền quản lý thành phố chuyển sang người Việt Nam, nhiều đường phố mang tên người Pháp đổi dần sang tên người Việt Nam, chỉ còn giữ lại những địa danh kiểu mốc địa chính: Pin Thouard, Pic Robin, Labbé Sud... hay các hồ: Grand Lac, Lac des soupirs, Lac S' Benoit... Từ năm 1953, với chủ trương Việt hóa các địa danh, các tên hồ, danh lam thắng cảnh đều được chuyển sang tiếng Việt.
2.4 Chiến thắng mùa xuân 1975 đưa Đà Lạt sang kỷ nguyên mới - chủ nghĩa xã hội, việc đổi tên là tất yếu. Những đường phố mang tên các nhân vật lịch sử có ít nhiều thay đổi (19 trường hợp), còn hầu hết vẫn giữ nguyên như trước đây.
3. Nhìn chung, qua các địa danh Đà Lạt, chúng ta có thể hình dung một số quy định như sau:
3.1 Dùng tên người, trong đó:
a. những người có công khai phá: Đạ Pàng Đòng (suối ông Đoòng), Liêng Tô Sra (Thác ông Tô và ông Sra), Trại Hầm (Trại ông Hầm), Ferme Faraut (Đồn điền Pha rô), rue Champoudry, Thouard, Yersin,...
b. các danh nhân văn hóa và lịch sử: Pasteur, Yersin, Lamartine, Bà huyện Thanh Quan, hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Trần Hưng Đạo, Hùng Vương...
c. các nhân vật lịch sử - chính trị: Roume, Doumer, Gia Long, Hàm Nghi, Ngô Đình Huân, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân...
3.2 Dùng tên các địa danh khác nhằm:
a. tôn vinh: Annam, France...
b. địa danh lịch sử: Mê Linh, Vạn Kiếp, Lam Sơn...
c. biểu thị các đợt di cư lớn: Hà Đông, Nghệ Tĩnh, Sầm Sơn...
3.3 Đặt tên theo đặc điểm khu vực: Đa Prenn, Đatanla, Đăng Bồ Liềng (đồi đầu thác), lò Gạch, Cầu Quẹo, rue des Missions hay Nhà Chung, đồi Cù...
3.4 Đặt tên theo cảm hứng nghệ thuật:
a. theo sự tích văn học: Brah Sét (Đồi thần Sét), Đạ Chớt Ruas (suối chết voi), Đồi thông hai mộ...
b. mang tính chất trang trọng bằng cách dùng âm Hán Việt: Xuân An, Bình Minh, Ánh Sáng, Đa Thành, Đa Thiện, Đa Phước,...
c. và đầy hình tượng: Vallée d'amour (Thung lũng Tình Yêu), Bois d'amour (Rừng Ái Ân), Lac des soupirs (hồ Than Thở)...
3.5 Dùng tên hoa: Hiện tượng này chủ yếu dành cho các tên gọi các quán xá, trường hợp hiếm hoi dùng để đặt tên cho các đường phố ở Đà Lạt, ta chỉ bắt gặp hai con đường Rue des Roses (đường Hoa Hồng), Rue des Glaieuls (đường Hoa Layơn).
4. Nhân đây, chúng tôi xin đính chính lại những hiểu nhầm của các tác giả đi trước về một vài địa danh Đà Lạt
4.1 Trước hết, tên gọi Đà Lạt: "đất của người Lạch, người vùng rừng thưa, đồi trọc ..." là cách hiểu đúng quy luật danh học mà nhiều tác giả đã giải thích, cũng có thể hiểu đó là con suối Lạch (chảy từ Học việc lục quân đến thác Cam Ly nay là suối Cam Ly). Các giả thuyết mang tính chất suy luận văn nghệ như Đa Lạc (đọc theo phương ngữ Nam Bộ) - nhiều niềm vui, hay viết tắt từ câu La-tinh "Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem" (cho người này niềm vui, cho người kia sự mát mẻ) không nên cho là giả thiết khoa học như một vài tác giả đã bàn.
4.2 Hồ Xuân Hương là tên gọi hồ nhân tạo từ những năm ba mươi, được người Pháp đặt tên là Hồ Lớn (Grand Lac), sau đó chủ trương Việt hóa của Hội đồng thành phố và Nguyễn Vỹ lúc bấy giờ là Chủ tịch Hội đồng đổi tên là hồ Xuân Hương (hồ hương xuân) chứ không phải lấy tên bà chúa thơ nôm, họ Hồ. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì:
a. Các hồ Đà Lạt được đổi tên có hai xu hướng chính: theo địa danh lịch sử (Vạn Kiếp, Mê Linh...) hay theo cảm hứng văn chương (Than Thở, Xuân Hương, Đa Thiện, Tuyền Lâm), chứ không hề dùng tên người . Đây không kể những hồ giữ nguyên tên cũ của người Thượng: Dankia, Danhim...
b. Nếu lấy tên nữ sĩ Hồ Xuân Hương, thì chúng ta phải ghi là hồ Hồ Xuân Hương mới đúng.
c. Và nếu như vậy, thì con đường xung quanh hồ này vốn từ đường Lamartine (nay là đường Bà huyện Thanh Quan) đổi thành đường Hồ Xuân Hương mới hợp lý hơn, chứ không ai lại chọn con đường khác xa hơn, gần hồ Than Thở để đặt tên cả.
Đây là khu vực cư trú của người Lạch, cư dân làm lúa nước vùng rừng thưa, đồi thông, không thể có người Chil, một cư dân làm rẫy ở đây được. Việc khẳng định dưới đáy hồ là buôn làng cũ của các cư dân Kơho - Chil (chúng tôi nhấn mạnh), Kơho - Lạt là thiếu thận trọng. Bằng con đường hồi cố, chúng tôi lần theo gia phả của những dòng họ Lạch ở vùng trung tâm Đà Lạt (Da Gút, Bon Yô, Bon Dơng), những vị trí làng gần mép hồ ít nhất bảy đời gần đây cũng không ai xác nhận cả. Có một nhóm người Chil - Chil Kon Klang (Chil con Ó) không có vùng đất cố định thường mua đất của các làng khác, thì lúc ở Đà Lạt cũng chỉ nằm phía Trại Mát và xa hơn gần chân đèo Prenn, nơi những vùng rừng hỗn giao và lá rộng thuận tiên cho họ làm rẫy.
4.3 Cam Ly: các nhà nghiên cứu về Đà Lạt hoàn toàn đúng khi khẳng định đây là tiếng Thượng, chứ không phải tiếng Việt như Cunhac cảm nhận. Nhưng việc đưa ra hai giả thuyết khác nhau (do ghép tên hai người Ha Mon và M'Ly và do tên một người tù trưởng Kơ M'Ly) mà không có lý giải sẽ tạo ra những hiểu biết mơ hồ không cần thiết. Theo điều tra của chúng tôi, việc người Pháp dùng tên Cam Ly để đặt tên cho con suối Đạ Lạch kéo dài từ phía đông bắc Đà Lạt qua hồ Xuân Hương, qua thác Cam Ly là dựa vào tên làng cũ của người Lạch: Rhang Pàng M'Ly (làng cũ ông M'Ly). Làng đó đóng tại ngọn đồi gần nghĩa trang liệt sĩ bây giờ. Con đường khảo sát của người Pháp theo chúng tôi nắm được chủ yếu qua phía Tà Nung...
Bởi nếu họ đi theo con đường lên Đà Lạt hiện nay (con đường Yersin đã đi chẳng hạn), thì con suối phải mang tên Đạ Lạch, thác Cam Ly phải có tên là Liêng Tô Sra hay Liêng Sra như người Thượng đã khẳng định. Câu chuyện về "voi trắng cọp trắng" có nhiều biến thể là đề tài của văn học dân gian, nhưng nên thận trọng khi dùng nó làm sự kiện lịch sử.
4.4 Hồ Than Thở vốn được dịch từ tiếng Pháp "Lac des Soupirs" (hồ của tiếng thở dài, thì thào).... Cách đặt tên này rất đúng thực tế vì một trăm năm trước đây vùng này là đầm lầy, có con suối chảy qua gọi là Đạ Pàng Đòng (suối ông Đoòng) mọc rất nhiều lau sậy. Hồ được tạo dựng khi xây nhà máy nước đầu tiên ở Đà Lạt. Câu chuyện mối tình của chàng trai Việt - Hoàng Tùng và cô gái Thượng - Mai Nương... cũng như việc chàng trai theo Nguyễn Huệ... là sáng tác sau này. Việc xác định vùng ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn có kéo dài đến đây hay không, hay trong cuộc chinh phạt của Tây Sơn có lần nào kéo quân qua Đà Lạt không vẫn chưa có những chứng cớ lịch sử nào thuyết phục.
4.5 Prenn là tiếng Thượng với nghĩa là cây cà đắng, một món ăn được đồng bào ưa thích và mọc khá nhiều dọc theo con suối cùng tên. Nó không hề có nghĩa là Chăm, bởi theo tiếng Kơho, Chăm có thể đọc là Prưm hay Prum. Cuộc chiến tranh giữa người Chăm với cư dân bản địa là có thật, nhưng đó không phải là lý do để suy ra Prenn được dùng gọi người Chăm và càng vô lý hơn là từ gốc Chăm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đà Lạt, thành phố cao nguyên, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993.
2. Nguyễn Diệp, Trương Phúc Ân, Đà Lạt trăm năm.
3. Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Mạc Đường chủ biên.
4. Nguyễn Đức Thận, Ghi nhanh về Đà Lạt (bản chép tay), Dalat, 1953.
5. Monographie de Dalat, 1953.
NGUYỄN TUẤN TÀI
Khoa ngữ văn Đại học Đà Lạt
Một bài nghiên cứu ngắn, hay, rất bổ ích của Thầy Nguyễn Tuấn Tài.
1. Trên cơ sở so sánh và đối chiếu các tài liệu nghiên cứu về Đà Lạt từ trước đến nay với các tư liệu điều tra hồi cố qua các đợt điền dã tại các vùng dân cư trong địa bàn thành phố và các huyện ngoại vi, chúng tôi thu thập được một danh mục các tên gọi có liên quan đến Đà Lạt trong hơn một trăm năm qua. Tư liệu phản ánh khá nhiều mặt, đặc biệt là lịch sử hình thành và phát triển của thành phố cao nguyên này. Kết quả xử lý tư liệu nói trên phần nào được công bố trong các bài viết của chúng tôi nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đà Lạt hình thành và phát triển. Bài viết này chỉ dừng lại khảo sát một mảng tư liệu nói trên về địa danh Đà Lạt.
2. Chính các địa danh Đà Lạt cũng đã phản ánh khá rõ nét các thời kỳ lịch sử của thành phố:
2.1 Trước hết, đó là thời kỳ khi người Pháp chưa đặt chân lên khai phá cao nguyên Lang Biang. Đà Lạt là vùng đất của tộc người Lạch (dân tộc Kơho) với những địa danh bằng tiếng Thượng dùng để gọi các sông, suối, thác, núi, đèo ... mà nhiều từ còn lưu giữ cho đến ngày nay: Đà Lạt, Lang Biang (Lâm Viên), Đan Kia, Ankroet, Đatanla, Cam Ly, Prenn, Manglinh, Tà Nung, núi Lu Ruas v.v...
2.2 Thời kỳ người Pháp đặt tên cho các đường phố và những công trình xây dựng, các địa danh trên bản đồ đều bằng tiếng Pháp. Một vài ngọn núi được đổi thành tên Pháp vào thời kỳ này, như Labbé (Láp-bê Bắc và Láp-bê Nam), Pin Thouard, Pic Robin. Trong số 72 tên đường có 54 từ gốc Pháp (75%), 12 từ gốc Việt (16%) và 6 từ gốc Kơho (8%).
2.3 Trong giai đoạn tiếp theo (1949-1974), quyền quản lý thành phố chuyển sang người Việt Nam, nhiều đường phố mang tên người Pháp đổi dần sang tên người Việt Nam, chỉ còn giữ lại những địa danh kiểu mốc địa chính: Pin Thouard, Pic Robin, Labbé Sud... hay các hồ: Grand Lac, Lac des soupirs, Lac S' Benoit... Từ năm 1953, với chủ trương Việt hóa các địa danh, các tên hồ, danh lam thắng cảnh đều được chuyển sang tiếng Việt.
2.4 Chiến thắng mùa xuân 1975 đưa Đà Lạt sang kỷ nguyên mới - chủ nghĩa xã hội, việc đổi tên là tất yếu. Những đường phố mang tên các nhân vật lịch sử có ít nhiều thay đổi (19 trường hợp), còn hầu hết vẫn giữ nguyên như trước đây.
3. Nhìn chung, qua các địa danh Đà Lạt, chúng ta có thể hình dung một số quy định như sau:
3.1 Dùng tên người, trong đó:
a. những người có công khai phá: Đạ Pàng Đòng (suối ông Đoòng), Liêng Tô Sra (Thác ông Tô và ông Sra), Trại Hầm (Trại ông Hầm), Ferme Faraut (Đồn điền Pha rô), rue Champoudry, Thouard, Yersin,...
b. các danh nhân văn hóa và lịch sử: Pasteur, Yersin, Lamartine, Bà huyện Thanh Quan, hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Trần Hưng Đạo, Hùng Vương...
c. các nhân vật lịch sử - chính trị: Roume, Doumer, Gia Long, Hàm Nghi, Ngô Đình Huân, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân...
3.2 Dùng tên các địa danh khác nhằm:
a. tôn vinh: Annam, France...
b. địa danh lịch sử: Mê Linh, Vạn Kiếp, Lam Sơn...
c. biểu thị các đợt di cư lớn: Hà Đông, Nghệ Tĩnh, Sầm Sơn...
3.3 Đặt tên theo đặc điểm khu vực: Đa Prenn, Đatanla, Đăng Bồ Liềng (đồi đầu thác), lò Gạch, Cầu Quẹo, rue des Missions hay Nhà Chung, đồi Cù...
3.4 Đặt tên theo cảm hứng nghệ thuật:
a. theo sự tích văn học: Brah Sét (Đồi thần Sét), Đạ Chớt Ruas (suối chết voi), Đồi thông hai mộ...
b. mang tính chất trang trọng bằng cách dùng âm Hán Việt: Xuân An, Bình Minh, Ánh Sáng, Đa Thành, Đa Thiện, Đa Phước,...
c. và đầy hình tượng: Vallée d'amour (Thung lũng Tình Yêu), Bois d'amour (Rừng Ái Ân), Lac des soupirs (hồ Than Thở)...
3.5 Dùng tên hoa: Hiện tượng này chủ yếu dành cho các tên gọi các quán xá, trường hợp hiếm hoi dùng để đặt tên cho các đường phố ở Đà Lạt, ta chỉ bắt gặp hai con đường Rue des Roses (đường Hoa Hồng), Rue des Glaieuls (đường Hoa Layơn).
4. Nhân đây, chúng tôi xin đính chính lại những hiểu nhầm của các tác giả đi trước về một vài địa danh Đà Lạt
4.1 Trước hết, tên gọi Đà Lạt: "đất của người Lạch, người vùng rừng thưa, đồi trọc ..." là cách hiểu đúng quy luật danh học mà nhiều tác giả đã giải thích, cũng có thể hiểu đó là con suối Lạch (chảy từ Học việc lục quân đến thác Cam Ly nay là suối Cam Ly). Các giả thuyết mang tính chất suy luận văn nghệ như Đa Lạc (đọc theo phương ngữ Nam Bộ) - nhiều niềm vui, hay viết tắt từ câu La-tinh "Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem" (cho người này niềm vui, cho người kia sự mát mẻ) không nên cho là giả thiết khoa học như một vài tác giả đã bàn.
4.2 Hồ Xuân Hương là tên gọi hồ nhân tạo từ những năm ba mươi, được người Pháp đặt tên là Hồ Lớn (Grand Lac), sau đó chủ trương Việt hóa của Hội đồng thành phố và Nguyễn Vỹ lúc bấy giờ là Chủ tịch Hội đồng đổi tên là hồ Xuân Hương (hồ hương xuân) chứ không phải lấy tên bà chúa thơ nôm, họ Hồ. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì:
a. Các hồ Đà Lạt được đổi tên có hai xu hướng chính: theo địa danh lịch sử (Vạn Kiếp, Mê Linh...) hay theo cảm hứng văn chương (Than Thở, Xuân Hương, Đa Thiện, Tuyền Lâm), chứ không hề dùng tên người . Đây không kể những hồ giữ nguyên tên cũ của người Thượng: Dankia, Danhim...
b. Nếu lấy tên nữ sĩ Hồ Xuân Hương, thì chúng ta phải ghi là hồ Hồ Xuân Hương mới đúng.
c. Và nếu như vậy, thì con đường xung quanh hồ này vốn từ đường Lamartine (nay là đường Bà huyện Thanh Quan) đổi thành đường Hồ Xuân Hương mới hợp lý hơn, chứ không ai lại chọn con đường khác xa hơn, gần hồ Than Thở để đặt tên cả.
Đây là khu vực cư trú của người Lạch, cư dân làm lúa nước vùng rừng thưa, đồi thông, không thể có người Chil, một cư dân làm rẫy ở đây được. Việc khẳng định dưới đáy hồ là buôn làng cũ của các cư dân Kơho - Chil (chúng tôi nhấn mạnh), Kơho - Lạt là thiếu thận trọng. Bằng con đường hồi cố, chúng tôi lần theo gia phả của những dòng họ Lạch ở vùng trung tâm Đà Lạt (Da Gút, Bon Yô, Bon Dơng), những vị trí làng gần mép hồ ít nhất bảy đời gần đây cũng không ai xác nhận cả. Có một nhóm người Chil - Chil Kon Klang (Chil con Ó) không có vùng đất cố định thường mua đất của các làng khác, thì lúc ở Đà Lạt cũng chỉ nằm phía Trại Mát và xa hơn gần chân đèo Prenn, nơi những vùng rừng hỗn giao và lá rộng thuận tiên cho họ làm rẫy.
4.3 Cam Ly: các nhà nghiên cứu về Đà Lạt hoàn toàn đúng khi khẳng định đây là tiếng Thượng, chứ không phải tiếng Việt như Cunhac cảm nhận. Nhưng việc đưa ra hai giả thuyết khác nhau (do ghép tên hai người Ha Mon và M'Ly và do tên một người tù trưởng Kơ M'Ly) mà không có lý giải sẽ tạo ra những hiểu biết mơ hồ không cần thiết. Theo điều tra của chúng tôi, việc người Pháp dùng tên Cam Ly để đặt tên cho con suối Đạ Lạch kéo dài từ phía đông bắc Đà Lạt qua hồ Xuân Hương, qua thác Cam Ly là dựa vào tên làng cũ của người Lạch: Rhang Pàng M'Ly (làng cũ ông M'Ly). Làng đó đóng tại ngọn đồi gần nghĩa trang liệt sĩ bây giờ. Con đường khảo sát của người Pháp theo chúng tôi nắm được chủ yếu qua phía Tà Nung...
Bởi nếu họ đi theo con đường lên Đà Lạt hiện nay (con đường Yersin đã đi chẳng hạn), thì con suối phải mang tên Đạ Lạch, thác Cam Ly phải có tên là Liêng Tô Sra hay Liêng Sra như người Thượng đã khẳng định. Câu chuyện về "voi trắng cọp trắng" có nhiều biến thể là đề tài của văn học dân gian, nhưng nên thận trọng khi dùng nó làm sự kiện lịch sử.
4.4 Hồ Than Thở vốn được dịch từ tiếng Pháp "Lac des Soupirs" (hồ của tiếng thở dài, thì thào).... Cách đặt tên này rất đúng thực tế vì một trăm năm trước đây vùng này là đầm lầy, có con suối chảy qua gọi là Đạ Pàng Đòng (suối ông Đoòng) mọc rất nhiều lau sậy. Hồ được tạo dựng khi xây nhà máy nước đầu tiên ở Đà Lạt. Câu chuyện mối tình của chàng trai Việt - Hoàng Tùng và cô gái Thượng - Mai Nương... cũng như việc chàng trai theo Nguyễn Huệ... là sáng tác sau này. Việc xác định vùng ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn có kéo dài đến đây hay không, hay trong cuộc chinh phạt của Tây Sơn có lần nào kéo quân qua Đà Lạt không vẫn chưa có những chứng cớ lịch sử nào thuyết phục.
4.5 Prenn là tiếng Thượng với nghĩa là cây cà đắng, một món ăn được đồng bào ưa thích và mọc khá nhiều dọc theo con suối cùng tên. Nó không hề có nghĩa là Chăm, bởi theo tiếng Kơho, Chăm có thể đọc là Prưm hay Prum. Cuộc chiến tranh giữa người Chăm với cư dân bản địa là có thật, nhưng đó không phải là lý do để suy ra Prenn được dùng gọi người Chăm và càng vô lý hơn là từ gốc Chăm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đà Lạt, thành phố cao nguyên, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993.
2. Nguyễn Diệp, Trương Phúc Ân, Đà Lạt trăm năm.
3. Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Mạc Đường chủ biên.
4. Nguyễn Đức Thận, Ghi nhanh về Đà Lạt (bản chép tay), Dalat, 1953.
5. Monographie de Dalat, 1953.
NGUYỄN TUẤN TÀI
Khoa ngữ văn Đại học Đà Lạt